Cổ phiếu đáng chú ý ngày 22/12: MCH, GEX, PVT
Công ty chứng khoán phân tích và đưa ra nhận định mua, bán đối với các cổ phiếu MCH, GEX, PVT.
Masan Consumer (MCH): Khuyến nghị theo dõi, giá mục tiêu 220.800 đồng/cp
Ngày 25/12 tới đây, hơn 1,067 tỷ cổ phiếu MCH của Masan Consumer sẽ chính thức giao dịch trên sàn HoSE, với giá tham chiếu 212.800 đồng/cp, tương ứng vốn hóa gần 230.000 tỷ đồng (~8,7 tỷ USD).
Theo Chứng khoán Vietcap, do sẽ trở thành một trong những cổ phiếu thành phần quan trọng của VN-Index sau khi chuyển sàn, MCH có thể thu hút dòng vốn từ các quỹ chủ động tham chiếu theo chỉ số. Sau sáu tháng niêm yết trên HoSE, cổ phiếu này cũng có thể đủ điều kiện giao dịch ký quỹ, góp phần gia tăng thanh khoản và thu hút dòng vốn mới.
Bên cạnh việc chuyển sàn, MCH dự kiến sẽ có hai đợt phát hành cổ phiếu trong năm 2026, bao gồm: (1) Sử dụng cổ phiếu quỹ để phát hành 10,9 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu (tỷ lệ 10.000:103); (2) phát hành 226,9 triệu cổ phiếu từ nguồn VCSH (tỷ lệ 10.000:2.147). Tổng cộng cả hai đợt phát hành bằng 22,5% tổng lượng cổ phiếu đang phát hành hiện tại.
Vietcap định giá MCH theo phương pháp kết hợp 50:50 giữa mô hình chiết khấu dòng tiền (DCF) 10 năm và P/E mục tiêu. Mô hình DCF gồm hai giai đoạn: 2025–2030 và 2031–2035, phản ánh tiềm năng của MCH với vai trò một trong những doanh nghiệp hàng tiêu dùng tăng trưởng dài hạn hàng đầu tại Việt Nam. Giá mục tiêu được đưa ra là 220.800 đồng/cp trong giai đoạn định giá một năm đến hết 2026, tương ứng mức P/E dự phóng cho các năm 2025/2026/2027 lần lượt là 36 lần/31 lần/ 27 lần.
Vietcap cho rằng các doanh nghiệp FMCG trong nước hiện đang trong những giai đoạn tăng trưởng khác nhau, khiến định giá thị trường chưa phản ánh hết tốc độ tăng trưởng của MCH. Dù có quy mô tương đương, VNM và SAB ghi nhận CAGR lãi ròng giai đoạn 2020–2024 lần lượt ở mức -2% và -3%, trong khi MCH đạt 14,6%. Ngay cả trong thời kỳ P/E đỉnh điểm 2017–2019 (VNM: 20–30 lần; SAB: 30–40 lần), hai doanh nghiệp này chỉ duy trì CAGR doanh thu và lãi ròng ở mức một chữ số.
So với các doanh nghiệp FMCG trong khu vực, MCH không chỉ thể hiện tăng trưởng tốt mà còn duy trì biên lợi nhuận vượt trội và đòn bẩy thấp, cho thấy rủi ro tương đối thấp. Theo Vietcap, định giá của MCH vẫn đang ở mức chiết khấu so với nhóm doanh nghiệp cùng ngành tại Ấn Độ – thị trường có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về tiềm năng tăng trưởng ngành hàng tiêu dùng.
Dựa trên phân tích dài hạn, Vietcap đưa ra khoảng định giá 295.400–328.220 đồng/cp vào năm 2029. Đơn vị phân tích nhận định MCH sở hữu những động lực tăng trưởng hiếm có trong ngành FMCG Việt Nam, vì vậy xứng đáng nhận mức định giá cao hơn trong tầm nhìn ba năm tới.
Vietcap dự báo doanh thu và lợi nhuận của MCH sẽ chịu ảnh hưởng trong năm 2025 bởi những gián đoạn tạm thời, bao gồm (1) quá trình chính quy hóa hệ thống phân phối tại Việt Nam và (2) quá trình chuyển đổi của MCH sang mô hình bao phủ trực tiếp nhà bán lẻ. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh được kỳ vọng bật tăng trở lại trong năm 2026 nhờ nền thấp, sau đó duy trì tốc độ tăng trưởng vượt trung bình ngành trong giai đoạn 2027–2028.

Biên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được dự báo phục hồi từ 23,2% lên 24,6% vào năm 2028. Số ngày tồn kho có thể giảm từ 50 ngày xuống còn 44 ngày trong giai đoạn 2025–2028 nhờ mở rộng hệ thống bao phủ trực tiếp, áp dụng Digital 4P trong marketing và hiệu ứng cộng hưởng với WinCommerce (WCM).
Gelex (GEX): Khuyến nghị mua, giá mục tiêu 53.100 đồng/cp
Kết phiên 19/12, cổ phiếu GEX tăng hơn 0,2% lên mức 42.300 đồng/cp. Thanh khoản đạt gần 9,5 triệu cổ phiếu, tương ứng giá trị giao dịch khoảng 402 tỷ đồng. Khối ngoại mua ròng 13 tỷ đồng, đánh dấu phiên mua ròng thứ tư liên tiếp, với tổng giá trị mua ròng đạt 180,4 tỷ đồng.
Trong báo cáo cập nhật mới đây, Chứng khoán BIDV (BSC) sử dụng phương pháp định giá từng phần để xác định giá trị hợp lý của cổ phiếu GEX, qua đó nâng mức định giá từ 46.100 đồng/cp lên 53.100 đồng/cp (tăng 15%). Điều chỉnh này đến từ một số thay đổi trọng yếu.
Cụ thể, đóng góp của GEE (mảng kinh doanh cốt lõi) vào định giá tăng từ 24.833 tỷ đồng lên 28.904 tỷ đồng (tăng 16%). Mảng vật liệu xây dựng được điều chỉnh tăng từ 2.167 tỷ đồng lên 2.332 tỷ đồng (tăng 8%), nhờ kỳ vọng tỷ lệ chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp trên doanh thu giảm từ 15% xuống 14,7% sau năm 2025, trong bối cảnh doanh nghiệp đẩy mạnh tái cấu trúc và tối ưu hóa chi phí.
Định giá phần vốn góp tại EIB cũng được nâng từ 3.297 tỷ đồng lên 4.098 tỷ đồng (tăng 24%), do BSC thay đổi phương pháp định giá từ giá trị ghi sổ sang phương pháp P/B với mức 1,5 lần. Ngược lại, mảng bất động sản khu công nghiệp được điều chỉnh giảm 5% do GEE thoái vốn tại Hạ tầng Gelex, khiến tỷ lệ sở hữu của GEX giảm.

Về triển vọng kinh doanh năm 2026, mảng thiết bị điện (GEE) được đánh giá còn nhiều dư địa tăng trưởng. Thị phần CADIVI tại khu vực phía Bắc hiện vào khoảng 18%, thấp hơn đáng kể so với mức khoảng 60% tại khu vực phía Nam, cho thấy dư địa mở rộng thị phần vẫn lớn, nhờ lợi thế về chất lượng sản phẩm, phù hợp nhu cầu và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh đó, EVN dự kiến đẩy mạnh đầu tư lưới điện sau hai năm trì hoãn nhằm bắt kịp tiến độ Quy hoạch điện VIII.
Một điểm nhấn đáng chú ý khác là GEE đã làm chủ công nghệ sản xuất máy biến áp 500kV – 3x300MVA, trong bối cảnh Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu đối với dòng sản phẩm này. Điều này giúp doanh nghiệp mở rộng thị phần trong phân khúc hạ tầng điện công nghiệp. Ngoài ra, dự thảo nghị định về phát triển công nghiệp chế tạo trong lĩnh vực điện lực đang đề xuất yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu 60% và ưu tiên nhà thầu trong nước đối với các dự án quan trọng cấp quốc gia. Nếu được ban hành chính thức, chính sách này được kỳ vọng sẽ tạo động lực tăng trưởng bền vững cho GEE từ năm 2026 trở đi.
Đối với mảng vật liệu xây dựng (VGC), BSC đánh giá biên lợi nhuận gộp đã tạo đáy trong quý IV/2024 và duy trì trên 14% trong ba quý liên tiếp, nhờ thị trường bất động sản sôi động trở lại cùng nguồn cung căn hộ tăng. Bên cạnh đó, UBND TP. Hà Nội đã thông qua danh sách thí điểm 157 dự án với tổng diện tích 862ha, trong khi TP. HCM có 117 dự án với diện tích 1.510ha theo Nghị quyết 171/2024/QH15, qua đó tạo nguồn cung lớn cho thị trường trong thời gian tới. Trong bối cảnh này, nửa đầu năm 2026 nhiều khả năng sẽ trở thành giai đoạn tăng tốc lợi nhuận của mảng vật liệu xây dựng.
Ngoài ra, VGC đang triển khai tái cấu trúc các công ty con theo hướng tinh gọn bộ máy, giảm chồng chéo và tập trung mua nguyên vật liệu tập trung để hưởng mức chiết khấu tốt hơn. BSC kỳ vọng tỷ lệ chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp trên doanh thu của mảng này sẽ giảm xuống 15,2% trong năm 2025 và 14,7% trong năm 2026, so với mức 15,5% của năm 2024.
Ở mảng nước sạch (VCW), việc tăng giá bán và mở rộng công suất được kỳ vọng tạo bước nhảy vọt về lợi nhuận. Từ quý II/2025, giá bán sỉ nước sạch tăng từ 5.089 đồng/m3 lên 7.767 đồng/m3 (tăng 53%). Đồng thời, dự án Sông Đà 2 dự kiến đi vào hoạt động từ đầu năm 2026, giúp nâng gấp đôi công suất lên tổng cộng 600.000 m3/ngày đêm. Trong giai đoạn 2025–2026, mảng này dự kiến đóng góp lần lượt 148 tỷ đồng và 162 tỷ đồng vào lợi nhuận sau thuế cổ đông thiểu số, chiếm khoảng 10% lợi nhuận cốt lõi, trong khi năm 2024 ghi nhận khoản lỗ 48 tỷ đồng.
PV Trans (PVT): Khuyến nghị khả quan, giá mục tiêu 20.400 đồng/cp
Kết phiên 19/12, cổ phiếu PVT giảm 0,3% xuống 18.250 đồng/cp. Thanh khoản đạt 1,6 triệu cổ phiếu (28,7 tỷ đồng), thấp hơn 46% so với mức bình quân 10 phiên gần nhất.
Trong báo cáo cập nhật mới đây, Chứng khoán SSI duy trì khuyến nghị khả quan đối với cổ phiếu PVT và nâng giá mục tiêu lên 20.400 đồng/cp. Việc điều chỉnh này phản ánh triển vọng cải thiện của giá thuê tàu định hạn (Time Charter – TC) trong năm 2026, tiến độ mở rộng đội tàu, cũng như kỳ vọng sản lượng vận tải phục hồi từ mức nền thấp của năm 2025.
Cụ thể, SSI kỳ vọng kết quả kinh doanh quý IV/2025 sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mạnh, nhờ ba tàu mới được bàn giao, nâng tổng quy mô đội tàu của PVT lên 65 chiếc, tương đương khoảng 2 triệu DWT. Ban lãnh đạo PVT đặt kế hoạch cho quý IV/2025 với doanh thu đạt 4.500 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế (LNTT) đạt 586 tỷ đồng, tương ứng mức tăng 62% so với cùng kỳ và tăng 34,3% so với quý trước, chủ yếu nhờ mức nền thấp của quý IV/2024.
Tuy nhiên, theo SSI, kế hoạch này vẫn mang tính thận trọng. Các tàu mới của PVT đã được khách hàng quốc tế thuê ngay sau khi bàn giao trong bối cảnh giá thuê tàu đang phục hồi, cho thấy khả năng cao doanh nghiệp sẽ ký được các hợp đồng thuê tàu định hạn với mức giá thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, việc PVT tiếp nhận thêm bốn tàu mới chỉ riêng trong quý IV/2025 giúp năng lực vận tải tăng khoảng 14% trong một quý, qua đó tạo lực đẩy đáng kể cho kết quả kinh doanh quý IV cũng như triển vọng dài hạn. Trên cơ sở đó, SSI dự báo LNTT quý IV/2025 của PVT đạt 679 tỷ đồng, cao hơn 15,8% so với kế hoạch và tăng 87,5% so với cùng kỳ.

Triển vọng năm 2026 của PVT được SSI đánh giá tích cực nhờ sự phục hồi của thị trường tàu chở dầu. Các yếu tố hỗ trợ bao gồm hoạt động công nghiệp toàn cầu cải thiện và các lệnh trừng phạt địa chính trị khiến hiệu suất vận hành của đội tàu toàn cầu suy giảm, qua đó làm thắt chặt nguồn cung hiệu dụng. Giá thuê tàu định hạn một năm đối với tàu MR đã tăng khoảng 16% trong quý III/2025 so với mức đáy đầu năm, củng cố tín hiệu phục hồi trên diện rộng của thị trường.
Việc PVT tiếp tục bổ sung tàu mới, bao gồm tàu chở dầu thô Poseidon và tàu Nova MR, được SSI đánh giá là tín hiệu cho thấy niềm tin của ban lãnh đạo vào triển vọng thị trường. Ngoài ra, lợi nhuận ròng của PVT có thể tăng mạnh hơn trong năm 2026 nếu doanh nghiệp, thông qua công ty con PDV, thực hiện bán tàu PVT Neptune (giá trị ước khoảng 3,8 triệu USD) hoặc tiếp tục khai thác tàu này theo hợp đồng COA, cả hai kịch bản đều mang lại tác động tích cực.
Dự báo năm 2026 của SSI được xây dựng theo hướng thận trọng nhưng khả quan, trên cơ sở cân bằng giữa việc luồng hàng hóa quay về trạng thái bình thường và mặt bằng giá cước từng bước cải thiện. Các giả định chính bao gồm: (1) Sản lượng vận tải tăng 6,3% so với cùng kỳ, dựa trên giả định công suất đội tàu tăng 15%, lên 2,3 triệu DWT; (2) đơn giá vận tải bình quân tăng 6,8%, phản ánh đà hồi phục của giá thuê tàu định hạn và giao ngay. SSI duy trì quan điểm rằng giá thuê tàu sẽ phục hồi từ vùng đáy của đầu chu kỳ, dù tốc độ cải thiện có thể diễn ra chậm trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định.

